Lê Đại Hành
Lê Đại Hành (10 tháng 8 năm 941 – 18 tháng 4 năm 1005) tên húy : Lê Hoàn . Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê nước Đại Cồ Việt, trị vì nước Đại Cồ Việt trong 24 năm. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng biểu hiện của dân tộc Việt Nam.
Khi còn thiếu thời ông làm quan cho nhà Đinh dưới thời Đinh Tiên Hoàng, đến chức Thập đạo tướng quân . Năm 979, viên quan Đỗ Thích sát vua Đinh Tiên Hoàng và người con Đinh Liễn, người con thứ tên Đinh Toàn kết nối ngôi lúc 6 tuổi, Lê Đại Hành làm Thủ chính, siêu là Phó vương , đại quyền triều đình. Nhà Tống lấy Lê Đại Hành chuyên quyền để phát binh xâm lược Đại Cồ Việt (thực ra đây chỉ là cái se, còn thực tế tham chiếu phát binh của vua Tống cho thấy nhà Tống muốn khôi phục cai trị của mình lên nước Việt giống như thời nhà Đường).
Trước tình thế đó, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng đem binh sĩ vào cung làm binh biến, buộc Thái hậu họ Dương (tức mẹ Đinh Toàn) trao long cổn cho Phó vương Lê Hoàn. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tự mình làm tướng đánh tan quân Tống, chém tướng Hầu Nhân Bảo, bắt sống Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư, giúp cho Đại Cồ Việt thanh bình, bảo toàn được nền độc lập của đất nước.
Hiện nay, có giả thuyết cho rằng Lê Hoàn là nhân vật tấn công vua Đinh Tiên Hoàng để giành vương miện. Giả thuyết điều này không rõ vì không có bằng chứng, nhưng việc Lê Hoàn là một vị vua giỏi và có nhiều đóng góp cho đất nước là điều không thể phủ nhận. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn thu được nhiều thành tích nổi bật trong việc cai trị, như việc phát triển nông nghiệp, mở trường học, tuyển dụng nhân tài và đánh bại Chiêm Thành, đánh sạch các tộc người ở biên giới, khiến họ phải quy phục triều đình. Vì vậy, ông vẫn được sử dụng để đánh giá là một quân minh có công trong việc xây dựng đất nước và được nhân dân ca ngợi.
Ông là phụ nhạc của Hoàng đế Lý Thái Tổ, ông ngoại của Hoàng đế Lý Thái Tông.
Thân thế
Đại Hành Hoàng đế húy là Lê Hoàn , sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (10 tháng 8 năm 941), cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen, quê hương của ông ở đâu vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi (xem phần tranh cãi về quê hương Lê Đại Hành).
Câu chuyện ông được sinh ra có nhuốm màu truyền thuyết. Khi mới có thai, mẹ ông bao bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc chốc sinh ra Lê Hoàn
Ở thôn có quan dự án là Lê hoang tìm việc lạ, nói: “Tư cách trẻ con, người thường không so sánh được” , tiếp nhận làm con nuôi, chăm sóc giáo dục, không có gì khác con đẻ. Có đêm mùa đông trời lạnh, Lê Hoàn úp mà ngủ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan lén đến xem, thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì càng trở nên quý Lê Hoàn.
Sự nghiệp
Lớn lên, Lê Hoàn theo giúp Nam Việt vương Đinh Liễn, tính tình tự do, có chí lớn. Sứ quân Đinh Bộ Lĩnh khen là người trí dũng, chắc chắn dù thế nào cũng được việc, liền giao cho cai quản 1 chiến quân sĩ. [ 1 ]
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức vua Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp văn võ, tăng đạo. Đinh Đế lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công , Lưu Cơ làm Đô hộ sĩ sư , Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân , Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư , Trương Ma Ni làm Tăng lục , Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi . [ 1 ]
Tháng 10 năm 979, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn ở sân cung. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền cùng Lê Hoàn vương vệ vương Đinh Toàn lên ngôi hoàng đế và tôn giáo Đinh Toàn là Dương Vân Nga làm Hoàng thái hậu. [ 1 ] Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi khi mới 6 tuổi, Lê Hoàn làm nhiếp ảnh chính đảm bảo nước, an toàn là Phó vương. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp nghi ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, nuột binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về Hoa Lư giết Lê Hoàn.
Lê Hoàn chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây Đô, Đinh Điền, Nguyễn Bặc bỏ chạy, đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc đóng cũi đưa về kinh sư, sau đem chém. Phạm Hạp được tin, mất khí thế, chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang. Lê Hoàn đuổi theo, bắt sống Phạm Hạp mang về kinh sư.
Nhà Tống xuất binh
[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 6 năm 980, Tri châu Ung của nhà Tống là Thái thường Bác sĩ Hầu Nhân Bảo dâng thư khuyên hoàng đế Tống Thái Tông nên lựa thời cơ nước Nam rối ren, vua còn nhỏ, đem quân chinh phạt. Vua Tống nghe theo.
Tháng 7 năm 980, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châu lục lộ thủy lộ Chuyển vận sứ, Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng, Bất tác sứ Hác Thủ Tuấn, Yên bi khố sứ Trần Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ binh mã Bộ thư, Ninh Châu Thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố Phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan Cáp môn chi hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mã Đô bộ thư, họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng sang chinh phạt nước Nam.[1]
Lên ngôi vua
Nhận tin quân Tống chuẩn bị xâm lược, Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi chiến đấu, lấy người Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người: “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”. Quân sĩ đều hô vạn tuế.[1]
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó ông lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980), giáng phong Đinh Toàn làm Vệ vương. Lê Hoàn còn truy phong cha làm Trường Hưng vương và mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu.[1]
Chiến tranh với Bắc Tống (981)

Ngoại giao
[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 8 năm 980, vua Tống xuống chiếu đem quân xâm lược Đại Cồ Việt, sai Lư Đa Tốn mang thư sang. Tháng 10 cùng năm, vua Lê Hoàn sắp phát binh, sai Nha hiệu là Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ đưa thư sang Tống giả làm thư Vệ vương Đinh Toàn thỉnh cầu Lê Hoàn nối ngôi cha, ban cho mệnh lệnh chính thức; ý muốn hoãn binh nhà Tống.[1]
Nhà Tống sai Trương Tông Quyền mang thư trả lời rằng: Họ Đinh truyền nối ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm thống soái, khanh[4] làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn còn trẻ con, thì nên bảo cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn họ vào chầu ắt sẽ có điển lễ ưu đãi và sẽ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường, khanh nên chọn một. Vua Lê Hoàn không nghe.[1]
Nhà Tống liền thảo chiếu chỉ chinh phạt Đại Cồ Việt, nội dung lời chiếu chỉ như sau:
- Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất Diên Chỉ (chỉ Đại Cồ Việt) chưa sáp nhập vào địa đồ Trung-Quốc, chúng ở một phương, gần nơi Ngũ Lĩnh. Từ cuối đời Đường rối loạn, chia sẻ đất đai, rồi chúng làm ra một nước tiếm ngụy, ở xa thanh giáo thành ra phong tục như đứa mù đứa điếc. Kịp khi Phiên-Ngung đã bình định, mới ban cho chính sóc mà tuân hành, tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ tu luyện binh lính, có ý quật cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế? Vậy ta bất đắc dĩ phải trị tội gian ngụy để cứu dân, phải cử binh qua đánh để khai hóa xứ mọi rợ; nay cho bọn Tôn Toàn Hưng xuất quân qua đánh.[5]
Diễn biến
[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà Tống dùng Lan Châu Đoàn luyện sứ là Tôn Toàn Hưng, Bát tắc sứ là Thích Hậu, Tả Giám môn vệ Đại tướng quân là Thôi Lượng làm chức Lục lộ Binh mã Tổng quản, từ đường Ung Châu tiến quân; Ninh Châu Thứ sử là Lưu Trừng, Án bí Khố sứ là Giả Thực, Cung phụng Quan Các môn Chi hậu là Vương Soạn làm chức Thủy quân Binh mã Tổng quản do đường Quảng Châu tiến quân. Lại dùng Ngọ Xương Duệ làm chức Tri Giao châu Hành doanh Thông tục. Hầu Nhân Bảo chỉ huy.Nhóm Toàn Hưng từ giã; vua nhà Tống là Thái Tông lại hạ chiếu cho dẫn tiến, khiến Lương Quýnh thiết tiệc ở vườn Ngọc Tân để tống tiễn.
Mùa thu năm 980, quân Tống khởi hành; tháng 12 năm 980, quân Tống phá được hơn 1 vạn quân Đại Cồ Việt.
Mùa xuân, tháng 2 năm 981, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua Lê Hoàn đích thân làm tướng, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng.[1] Sách Việt sử tiêu án chép: Vua tự làm tướng ra chống đánh, sai sĩ tốt cắm gỗ, đầu bịt sắt để ngăn cửa sông.[3
Vua Lê Hoàn đã cho xây dựng một tòa thành có tên là Bình Lỗ để chống quân Tống. (Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn có nhắc đến thành này trong lời dặn lúc ông sắp mất: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế dựng nước, hoàng đế nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống…“)
Mùa hạ năm 981, quân Tống giao chiến với quân Việt, quân Tống chém được hơn 1000 người, bắt được hơn 200 thuyền chiến. Phạm Cự Lạng xin Lê Hoàn rút quân tại Ba Bộ. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hầu Nhân Bảo[b] cùng đạo tiền quân tiến sâu vào, bị thất bại luôn.[6] Cánh quân Tôn Toàn Hưng do đường thủy và đường bộ tới làng Đa-La, không gặp Hầu Nhân Bảo, bèn trở về Ba Bộ.
Vua Lê Hoàn sai quân sĩ trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo, đem chém.[1] Sách Việt sử tiêu án chép: sai người trá hàng, bắt được Nhân Bảo.[3] Sách An Nam chí lược chép: Lê Hoàn giả đầu hàng để dụ địch, Nhân – Bữu bèn trúng kế mà bị hại.
Trần Khâm Tộ nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua Lê Hoàn thừa thắng đuổi đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng; bắt sống đại tướng là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đưa về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên.
Sau chiến tranh
Sau chiến tranh, nước Việt an bình, bầy tôi dâng tôn mã cho vua Lê Hoàn là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế . Vua sai sứ sang nhà Tống cống các sản phẩm đất thổ và biểu hiện lỗi. Giang Nam Chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên cho Nhân Bảo chết dần. Vua Tống xuống rút quân về, sai sứ quở quân Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. Cuối cùng chết, Soạn bị giết ở Ung Châu, Tôn Toàn Hưng cũng bị giết bêu ở chợ.
Chiến tranh với Chiêm Thành
Khi người Việt nội thuộc triều đình ở Trung Nguyên thì ở phía Nam, người Chiêm Thành đã sớm xây dựng được một quốc gia độc lập tự chủ từ năm 192. Sinh sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ thu hẹp và nhỏ, vương quốc Chiêm Thành có thế mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công công công, nhưng lại thiếu những miền châu lục vực rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm Thành liên tục tiến hành các hoạt động quân sự với Đại Cồ Việt. [ 8 ] Năm 803, vua Chiêm sai viên tướng Senapati Parc quân xâm phạm An Nam, vây hãm phía nam quận Cửu Chân. Năm 979, quân Chiêm được Ngô Nhật Khánh dẫn đường, tổ chức lực lượng thủy quân hùng hậu tiến đánh Hoa Lư theo đường biển, nhưng bị tan vỡ vì cơn bão ở cửa biển Thần Phù. [ 9 ]
Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Cảnh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua Chiêm là Bê Mi Thuế (Paramesvaravarman) bắt giữ. Lê Hoàn tức giận, sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua tới. Bắt sống được quân sĩ nhiều vô kể, đồng thời là tài nữ trong cung trăm người và là nhà sư Thiên Trúc, được nhận đồ vật quý tặng về, thu được vàng bạc của kể hàng vạn; san thành trì, giải phóng khu vực trống, vừa một năm sẽ trở thành chuyên gia. Tống sử cho biết Lê Hoàn đã sai sứ sứ 93 tù bình Chiêm Thành cho vua Tống nỗ lực chứng thực năng lực của Đại Cồ Việt. Khi nhà vua đi chiến Chiêm, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa, đường núi nguy trở khó đi, liền sai đào hải mã mới, đào xong, công và tư đều tiện lợi.
Cũng theo Tống sử năm 990, Lê Hoàn đem quân chiến vào châu Địa Lý (Chiêm Thành), được nhiều quân dân và tổng thu nhiều cải. Đến các năm 995 và 997, quân Chiêm kéo sang đánh phá biên giới Đại Cồ Việt, Lê Hoàn phải cho quân đánh đuổi.
